Đọc hiểu truyện: Những chiếc ấm đất (Nguyễn Tuân) | Đề Thi cuối kỳ 1 môn Văn 12 Trường THPT Đông Thọ

Đề Đọc hiểu truyện: Những chiếc ấm đất (Nguyễn Tuân) nằm trong bộ Đề Thi cuối kỳ 1 môn Văn 12 Trường THPT Đông Thọ. Đề đọc hiểu bám sát chương trình học, có đáp án và thang chấm điểm chi tiết kèm theo ở bản word.

Đọc văn bản sau:

[Lược đoạn đầu: Ông cụ Sáu là một người thích uống trà Tàu, đặc biệt là thứ nước trà được pha bằng nước giếng xin của chùa Đồi Mai. Suốt mười năm nay, cứ mỗi tháng một lần, cụ Sáu đều lên chùa Đồi Mai để uống trà và đàm đạo với sư cụ trụ trì như một cái thú không thể thiếu trong cuộc sống. Hôm nay, vì có vị khách từ xa đến thưởng trà, cụ Sáu sai con trai đến chùa Bạch Mai biếu sư cụ bình trà đầu xuân và xin một gánh nước giếng về pha trà đãi khách. Trong cuộc trà, người khách kể cho cụ Sáu nghe câu chuyện về một người ăn mày am hiểu thú uống trà…]

Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to lên:
– Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại toàn là ấm song ấm quý.
– Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống một tuần nước đấy thôi. Chứ cụ tính làm gì ra những thứ người lạ ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.
– Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai nữa chứ. Chẳng nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:
– Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. “Thứ nhất Thế Đức gan gà; – thứ nhì Lưu Bội; – thứ ba Mạnh Thần”. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:
– Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tàu, họ gọi là kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.
– Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?
– Lại “ngư nhãn, giải nhãn” chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa, và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười, uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng với một câu:
– Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người bạn cũ. Mỗi lần gặp nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.
Năm ấy nước sông Nhĩ Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả lạ. Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi bị cuốn phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảnh giấy hồng điều đôi câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời, quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước trước hiên mai*.
Năm sau, quãng đê hàn khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một lần nữa. Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu đối giấy hồng điều, gió mưa đã làm bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ kín dòng chữ bằng những vạch bùn ngang dày dặn.

[Lược đoạn cuối: Gia cảnh nhà cụ Sáu sa sút, cụ phải bán nhà và mưu sinh ngoài chợ bằng việc bán ấm trà. Tuy vậy, người ta vẫn thấy, thi thoảng cụ vẫn giữ cái thú uống trà như ngày nào.]

(Trích “Những chiếc ấm đất”, Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân, NXB Hội nhà văn, 2023, tr 34-36)

Chú thích: (*) Hai câu thơ của ông Tú Hải Văn.

Đọc hiểu truyện: Những chiếc ấm đất (Nguyễn Tuân)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1 (0,5 điểm): Xác định ngôi kể của văn bản trên.

Xem lời giải

Ngôi kể của văn bản: ngôi thứ 3

Câu 2 (0,5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.

Xem lời giải

Phương thức biểu đạt chính: tự sự

Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ đối trong hai câu thơ:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời, quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước trước hiên mai*.

Xem lời giải

– Biện pháp tu từ đối: đối câu thơ thứ nhất với câu thơ thứ 2
– Tác dụng:
+ Tăng sức hấp dẫn, gợi hình gợi cảm, tăng tính nhạc cho hai câu thơ
+ Nhấn mạnh sự đối lập – tương đồng giữa hai con người:
++ Câu 1: Hình ảnh con người tao nhã, sang trọng, ưa cuộc sống rong ruổi đó đây.
++ Câu 2: Hình ảnh con người thanh nhàn, thư thái, an nhiên; sống gắn bó với thiên nhiên và những thú vui tao nhã.
=> Cả hai tuy khác nhau về lựa chọn cách sống nhưng đều giống nhau ở sự ung dung, tự tại, tận hưởng cuộc sống, thú vui của mình.

Câu 4 (1,0 điểm): Chỉ ra điểm giống nhau giữa cụ Sáu và người khách uống trà.

Xem lời giải

Điểm giống nhau giữa nhân vật cụ Sáu và vị khách uống trà:
– Đều có sở thích uống trà, sành trong thưởng thức trà.
– Đều am hiểu về nghệ thuật trà đạo: ấm pha trà, nước pha trà…
– Đều là những người có tâm hồn nghệ sĩ, thanh tịnh, sâu sắc, tinh tế.
– Đều là yêu quý, kính trọng, đồng điệu với những người cùng sở thích với mình.

Câu 5 (1,0 điểm): Từ văn bản trên, anh/ chị hãy nêu suy nghĩ của mình về ý nghĩa của việc giữ gìn các giá trị văn hóa cổ truyền.

Xem lời giải

Ý nghĩa của việc giữ gìn các giá trị văn hóa cổ truyền:
– Gắn kết các thế hệ trong cộng đồng
– Giáo dục thế hệ trẻ về cội nguồn, lịch sử, truyền thống của dân tộc
– Tạo nên bản sắc văn hóa riêng
– Góp phần vào sự đa dạng văn hóa
– Tạo cảm hứng và sáng tạo cho thế hệ sau

Tải về toàn bộ đề thi bản word:

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *